1.1. Tìm hiểu chung
1.1.1. Tác giả Hoài Thanh
a. Tiểu sử:
– Hoài Thanh (1909-1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên.
– Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước.
– Thời còn đi học, ông từng tham gia phong trào yêu nước và từng bị thực dân Pháp bắt. Ông từng làm Chủ tịch Hội văn hóa cứu quốc ở Huế.
– Sau Cách mạng ông hoạt động chủ yếu trong ngành văn hóa- nghệ thuật và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng.
Hoài Thanh (1909-1982)
b. Sự nghiệp sáng tác
– Các tác phẩm tiêu biểu: Văn chương và hành động, Thi nhân Việt Nam, Có một nền văn hóa Việt Nam, Nói chuyện thơ kháng chiến,….
– Ông là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại
1.1.2. Tác phẩm
a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
– Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam 1932 – 1941.
– Công trình này mang tính chất của một bản “tổng kết” về phong trào Thơ mới ngay trong thời kì phát triển đỉnh cao của nó.
b. Thể loại:
Một thời đại trong thi ca thuộc thể loại văn nghị luận.
c. Phương thức biểu đạt
Văn bản Một thời đại trong thi ca có phương thức biểu đạt là Nghị luận.
d. Bố cục văn bản:
– Phần 1 (từ đầu đến đại thể): Đặt vấn đề tinh thần Thơ mới.
– Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng): Sự phân biệt thơ cũ và Thơ mới; cảm xúc chủ đạo của Thơ mới.
– Phần 3 (còn lại): Niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của Thơ mới.
e. Tóm tắt tác phẩm:
Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942. Sau khi điểm lại quá trình hình thành của thơ Mới, quá trình đấu tranh quyết liệt với phái thơ cũ để chiếm lĩnh chỗ đứng trên thi đàn của thơ Mới, Hoài Thanh đã nêu lên vấn đề: Bây giờ hãy đi tìm cái điều ta cho là quan trọng hơn: tinh thần thơ Mới. Tinh thần thơ Mới là ở chữ “tôi” với quan niệm cá nhân. Nhưng chữ “tôi” với nghĩa tuyệt đối của nó xuất hiện gắn liền với sự bơ vơ, lạc lõng trong bối cảnh xã hội tăm tối của đất nước. Nhà phê bình cũng đã khái quát sự bế tắc đáng thương của một thời đại qua phong cách của các tác giả: Thế Lữ (thoát lên tiên), Lưu Trọng Lư (phiêu lưu cùng trường tình), Xuân Diệu (đắm say), Hàn Mặc Tử (điên cuồng), Huy Cận (Ngơ ngẩn buồn). Cái bi kịch ngấm ngầm được các nhà thơ gửi vào tiếng Việt để chống chọi với hiện tại, để giữ lòng tin vào ngày mai.
1.2. Đọc hiểu văn bản
1.2.1. Nguyên tắc để xác định tinh thần Thơ mới
– Khó khăn:
+ Ranh giới giữa thơ mới thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận ra.
+ Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở.
⇒ Nhận xét: Bằng những câu văn giả định, cảm thán, với một giọng điệu thân mật, gần gũi, thiết tha, bức xúc mà chân thành, tác giả đã nêu lên được cái khó khăn mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.
– Nguyên tắc xác định:
+ Phương pháp so sánh: Sánh bài hay với bài hay, không căn cứ vào bài dở.
+ Cái nhìn biện chứng, nhiều chiều, không phiến diện: Nhìn vào đại thể, không nhìn vào cục bộ.
⇒ Nhận xét: Nguyên tắc ấy có sức thuyết phục, khách quan, đúng đắn. Bởi vì:
– Cái dở thời nào cũng có nó chẳng tiêu biểu gì hết, nó cũng không đủ tư cách đại diện cho thời đại và nghệ thuật luôn có sự tiếp nối giữa cái cũ và cái mớ.
– Đồng thời nhìn nhận đánh giá phải nhìn nhận toàn diện.
1.2.2. Tinh thần thơ mới
– Tinh thần thơ mới bao gồm trong chữ “tôi”:
+ Bản chất chữ “tôi”: Quan niệm con người cá nhân trong sự giải phóng, trỗi dậy, bùng nổ của ý thức cá nhân (cái nghĩa tuyệt đối của nó).
+ Hành trình: chập chững, lạ lẫm – được quen biết – được cho là đáng thương và tội nghiệp.
– Nhận xét:
+ Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, gắn liền với đoàn thể, cộng đồng, dân tộc.
+ Thơ mới là tiếng nói của cái tôi với nghĩa tuyệt đối, gắn liền với cái riêng, cái cá nhân, cá thể.
– Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu được kết hợp chặt chẽ với cái nhìn biện chứng, lịch sử, nhiều chiều:
+ Đặt cái tôi trong mối quan hệ đối chiếu với cái ta.
+ Đặt cái tôi trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thanh niên đương thời để phân tích, đánh giá.
+ Đặt cái tôi trong cái nhìn lịch sử để nhận định: Lịch sử xuất hiện, lịch sử phát triển, lịch sử tiếp nhận…
1.2.3. Sự vận động của thơ mới xung quanh cái “tôi” và bi kịch của nó
– Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp:
+ Mất cốt cách hiên ngang: không có khí phách ngang tàng như Lí Bạch, không có lòng tự trọng khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ.
+ Rên rỉ, khổ sở, thảm hại.
+ Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch.
→ Cách trình bày có tính khái quát cao (về sự bế tắc của cái tôi Thơ mới và phong cách riêng của từng nhà văn). Lập luận logic, chặt chẽ nhưng cách diễn đạt lại giàu cảm xúc và có tính hình tượng.
– Các hướng mà nhà Thơ mới đào sâu:
+ Thế Lữ: Thoát lên tiên.
+ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên: Điên cuồng.
+ Xuân Diệu: Say đắm.
+ Huy Cận: Ngẩn ngơ buồn.
→ Tuyệt vọng, càng đi sâu càng lạnh.
– Bi kịch của người thanh niên thời ấy:
+ Cô đơn, buồn chán, tìm cách thoát li thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc (Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của thơ mới).
+ Cái tôi bi kịch này “đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại” nên nó vừa có ý nghĩa văn chương vừa có ý nghĩa xã hội.
– Giải quyết bi kịch:
+ Họ yêu vô cùng thứ tiếng đã chia sẻ buồn vui với cha ông.
+ Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt.
+ Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua.
+ Họ muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng.
+ Họ tin rằng tiếng ta còn, nước ta còn.
+ Họ cần tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai.
1.3. Tổng kết
1.3.1. Về nội dung
Tác phẩm đã nêu rõ nội dung cốt yếu của tinh thần Thơ mới: Lần đầu tiên chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện trong thi ca đồng thời cũng nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ.
1.3.2. Về nghệ thuật
Nghệ thuật lập luận khoa học, chặt chẽ, thấu đáo, văn phong tinh tế, tài hoa, giàu cảm xúc.