1.1. Văn minh Chăm-pa
a) Cơ sở hình thành
Điều kiện tự nhiên
– Văn minh Chăm-pa hình thành trên vùng duyên hải và một phần cao nguyên miền Trung Việt Nam ngày nay, có địa hình đan xen khu vực cao nguyên với đồng bằng nhỏ hẹp. Những cánh đồng màu mỡ ven sông Thu Bồn tạo điều kiện thuận lợi cho sự định cư và canh tác nông nghiệp của cư dân. Với đường bờ biển dài, Vương quốc Chăm-pa sớm trở thành nơi tiếp nhận nhiều luồng di cư, tiếp xúc và giao lưu văn hoá từ bên ngoài, đặc biệt là ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ.
Dân cư
– Cư dân bản địa sinh sống lâu đời ở vùng duyên hải và một phần cao nguyên miền Trung là những người nói tiếng Môn cổ. Bên cạnh đó, còn có sự xuất hiện của bộ phận cư dân nói tiếng Mã Lai – Đa Đảo. Những nhóm cư dân này cộng cư với nhau và là chủ nhân đầu tiên của văn minh Chăm-pa.
b) Những thành tựu tiêu biểu
Đời sống vật chất
– Gạo nếp, gạo tẻ là nguồn lương thực chính của cư dân Chăm-pa. Bên cạnh đó còn có các loại kê, đậu,… Nguồn hải sản đa dạng với các loại cá, tôm, ốc,… Trang phục của người dân đơn giản: nam, nữ thường quấn ngang tắm vải từ ling trở xuông, tai đeo trang sức. Vua thường ở trong lầu cao, dân thường ở nhà sàn dựng bằng gỗ. Thuyền đi biển phổ biến là loại hai đầu nhọn, có cánh buôm, phần đầu lái và mũi thuyền đều uốn cong.
– Kĩ thuật làm đồ gốm và xây dựng đền tháp của cư dân Chăm-pa rất phát triển. Sản phẩm từ nghề gồm đa dạng, như tượng phù điêu trang trí kiến trúc đền tháp, gốm, tráng men, gốm gia dụng…. Cư dân Chăm-pa sử dụng chất nhựa thảo mộc trộn với bột gạch tạo thành chất kết dính giữa các viên gạch trong xây dựng đền tháp.
Quần thể tháp Bánh Ít (Bình Định)
Đời sống tỉnh thần
– Chữ viết Chăm ra đời trên cơ sở tiếp thu chữ Phạn và dần được sử dụng phổ biến trên các văn bia. Văn học dân gian (thần thoại, truyền thuyết, văn bi kí, sử thi, văn học viết (thơ, trường ca…) cùng song hành tổn tại.
– Cư dân Chăm-pa có tục thờ cúng tổ tiên, chôn người chết trong các mộ chum. Chịu ảnh hưởng của tôn giáo Án Độ, cư dân Chăm-pa sùng bái các vị thần Hin-đu giáo như thần Si-va, Vit-nu, Bra-ma. Phật giáo cũng được truyền bá rộng rãi trong các tầng lớp xã hội. Tư duy thâm mĩ và sự sáng tạo của cư dân Chăm-pa thể hiện rõ qua các công trình kiến trúc, điêu khắc, chế tác đồ trang sức,…
– Âm nhạc và ca múa đặc biệt phát triển với các loại nhạc cụ, như đàn cầm, trống, kèn,… cùng nhiều kiểu múa, như điệu múa Áp-sa-ra trong cung đình, ở đền miều, trong những dịp lễ, hội,…
Tổ chức xã hội và nhà nước
– Cư dân Chăm-pa chủ yếu sinh sống trong làng, duy trì quan hệ cộng đồng và thân tộc. Từng gia đình trong làng nhận ruộng đắt cày cây và thực hiện nghĩa vụ thuế khoá, lao dịch với nhà nước.
– Nhà nước Chăm-pa ra đời vào khoảng thế kỉ II, được tổ chức theo thể chế quân chủ chuyên chế. Nhà vua là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất, là người có quyền quyết định duy nhất về việc ban tặng ruộng đất cho các đền miếu, ban cấp cho quan lại. Giúp việc cho vua là quan lại ở trung ương và địa phương, phân cấp thành ba hạng: tôn quan, thuộc quan và ngoại quan. Tôn quan là chức quan cao cấp nhất trong tri đình. Thuộc quan là những chức quan dưới quyền tôn quan. Ngoại quan là những quan trấn trị tại địa phương. Cả nước chia thành nhiều châu, dưới châu là huyện, dưới huyện là làng.
Tổ chức Nhà nước Chăm-pa
1.2. Văn minh Phù Nam
a) Cơ sở hình thành
Điều kiện tự nhiên
– Văn minh Phù Nam hình thành trên lưu vực châu thổ sông Cửu Long với hệ thông sông ngòi, kênh rạch chẳng chịt để ra biển. Địa hình khu vực thấp, nguồn nước dồi dào, thuận lợi cho canh tác nông nghiệp trồng lúa nước. Có vị trí địa lí tiếp giáp biển với nhiều nơi thuận lợi cho việc tránh bão, neo đậu thuyền bè của các thương nhân, cư dân Phù Nam sớm có điêu kiện giao lưu với nên văn minh của nhiêu quôc gia khác, đặc biệt là nền văn minh Án Độ.
Dân cư
– Chủ nhân của văn minh Phù Nam chủ yếu là cư dân bản địa (người Môn cổ) kết hợp với một bộ phận cư dân đên từ bên ngoài. Họ cùng nhau thiệt lập quôc gia mới, làm chủ nền văn minh Phù Nam.
b) Những thành tựu tiêu biểu
Đời sống vật chất
– Nguồn lương thực, thực phẩm chính của cư dân Phù Nam là lúa gạo và các loại rau, củ, quả. Thực phẩm được bổ sung thêm từ chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh bắt thuỷ hải sản.
– Trang phục tuỳ theo từng tầng lớp xã hội: dân nghèo dùng vải may quần áo, nhà giàu dùng tơ lụa, gắm. Trang phục phổ biên là mặc áo chui đầu hoặc ở trân, dùng vải quân làm váy, người dân đi chân đât hoặc đi dép bằng gỗ cây bao hương, còn vua đi dép bằng ngà voi. Cư dân đặc biệt thích đeo đồ trang sức làm bằng đá quý, thuỷ tỉnh, vàng, bạc,…
– Cư dân Phù Nam sống chủ yếu trong các nhà sàn bằng gỗ. Việc di chuyển đi lại giữa các khu vực chủ yếu bằng thuyền bè trên kênh rạch, sông, biển.
Bông hoa bằng vàng (thuộc nền văn minh Phù Nam)
Đời sống tỉnh thần
– Cư dân Phù Nam đã sử dụng chữ viết từ sớm. Các loại văn tự có loại giống chữ Hán, chữ Phạn. Một sô minh văn khác trên bia đá, khác trên vàng đã thê hiện tính bác học và trình độ uyên thâm của người việt.
– Cư dân Phù Nam có tư duy thâm mĩ phát triển ở trình độ khá cao, thể hiện qua kĩ thuật chế tác đồ trang sức, kĩ thuật dệt vải, làm gồm, điêu khắc, kiến trúc. Về tín ngưỡng và tôn giáo, Hin-đu giáo và Phật giáo được tôn sùng. Ba vị thần được thờ phô biên là Bra-ma, Vit-nu, Si-va. Dân gian còn có tín ngưỡng sùng bái núi thiêng và nàng công chúa rắn.
Mảnh vàng có hình nam thần (Văn hóa Óc Eo)
Tổ chức xã hội và nhà nước
– Tổ chức xã hội của cư dân Phù Nam là các xóm làng (phum, sóc), gồm nhiều gia đình có cùng huyết thông, cùng sinh sông trên một khu vực. Xóm làng (phum, sóc) có quan hệ lỏng lẻo với nhau và bị chia cắt bởi rừng rậm, đâm lây.
– Nhà nước Phù Nam ra đời vào khoảng thể ki I, được tô chức theo thẻ chế quân chủ chuyên chế, vua là người đứng đầu có quyền lực tối cao. Nhà nước Phù Nam là tập hợp của nhiều tiểu quôc. Giúp việc cho vua là hệ thống quan lại, tăng lữ. Đầu thế kỉ III, Phạm Sư Man đã tiến hành chỉnh phục nhiều vương quốc, mở rộng cương vực bao gồm vùng hạ lưu sông Mê Công, sông Tông Lê Sáp,…