1.1. Hành trình phát triển của văn minh Đông Nam Á
Hành trình phát triển của văn minh Đông Nam Á gắn liền với các giai đoạn phát triển của lịch sử khu vực, có thể chia thành ba giai đoạn: từ đầu Công nguyên đến thế ki X, từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX.
a) Từ đầu Công nguyên đến thế kỉ X
– Từ đầu Công nguyên đến thế kỉ VII, trên nền tảng của văn hoá bản địa với kĩ nghệ sắt khá phát triên và những ảnh hưởng của văn hoá Án Độ, Trung Quốc, ở Đông Nam Á đã hình thành một số quốc gia, như Phù Nam, Chăm-| pa, Ta-ru-ma, Ma-lay-u, Ha-ri-pun-giay-a,… trong đó lớn mạnh nhất là Phù Nam.
– Từ thế ki VII đến thế kỉ X, sau khi Phù Nam suy yếu, khu vực Đông Nam Á hình thành thêm mộ số quốc gia mới, bên cạnh đó là một số quốc gia nhỏ trước đây bị thôn tính hoặc hợp nhất lại với nhau thành những nước lớn hơn, tiêu biểu là Ăng-co, Si vi-giay-a.
– Sự ra đời và bước đầu phát triển của các nhà nước là thành tựu văn minh nôi bật nhất trong giai đoạn này.
Di tích Trà Kiệu – kinh đô của vương quốc Chăm-pa (Quảng Nam, Việt Nam)
b) Từ thế kỉ X đến thế ki XV
– Đây là giai đoạn hình thành những quốc gia thống nhất và lớn mạnh ở Đông Nam Á, như Đại Việt, Ăng-co, Chăm-pa, Pa-gan, Lan Xang, Su-khô-thay, A-giút-thay-a, Ma-gia-pa-hít,…
Thành cổ Pa-gan (Mi-an-ma)
– Sự hoàn thiện của các nhà nước quân chủ với nên kinh tế phát triển thịnh đạt và xã hội ổn định đã đưa văn minh Đông Nam Á bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ. Trong giai đoạn này văn minh Đông Nam Á đã định hình bản sắc với những thành tựu đặc sắc và sáng tạo trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ, Trung Quốc. Bên cạnh đó, sự xâm nhập và lan toả của Hồi giáo đã tạo nên những sắc thái mới cho văn minh Đông Nam Á.
c) Từ thê kỉ XVI đến thê kỉ XIX
– Đây là giai đoạn khủng hoảng và suy vong của nhiều quốc gia phong kiến Đông Nam Á gắn liền với quá trình xâm nhập của các nước phương Tây, khởi đầu bằng sự kiện người Bồ Đào Nha đánh chiếm Ma-lắc-ca (1511).
Thánh lễ đầu tiên ở Phi-lip-pin (tranh vẽ)
– Sự du nhập văn hoá phương Tây cũng đem đến cho Đông Nam Á nhiều yếu tố văn hoá mới, như tôn giáo, ngôn ngữ, các hình thức văn hoá vật chất, tư tưởng nhân văn,… Văn minh Đông Nam Á trong giai đoạn này tiếp tục phát triển và đạt nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là văn học, nghệ thuật.
1.2. Một số thành tựu tiêu biểu của văn minh Đông Nam Á thời kì cổ – trung đại
a) Tín ngưỡng và tôn giáo
Tín ngưỡng
– Trên cơ sở văn minh nông nghiệp lúa nước, trong điều kiện địa lí tự nhiên tương đông, cư dân Đông Nam  có chung nhiêu tín ngưỡng bản địa, như tín ngưỡng thờ cúng tô tiên, thờ thân tự nhiên, thờ thân động vật,…
Tôn giáo
– Đông Nam Á là nơi hội tụ các tôn giáo lớn của thế giới là Phật giáo, Hin-đu giáo, Hỗi giáo và Thiên Chúa giáo. Đó cũng là những tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng tới đời sông của cư dân trong khu vực, nhưng mức độ ảnh hưởng có sự khác biệt giữa các quốc gia.
– Cư dân Đông Nam Á chủ yếu tiếp thu Phật giáo và Hin-đu giáo từ Án Độ thông qua con đường thương mại và truyền giáo từ những thế kỉ tiếp giáp Công nguyên. Riêng người Việt chủ yếu tiếp nhận hệ tư tưởng Nho giáo và các tôn giáo từ Trung Quốc. Trong các thế kỉ sau đó, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo cũng được lan truyền tới Đông Nam Á. Một số tôn giáo đã trở thành quốc giáo ở các quốc gia Đông Nam Á trong thời gian dài.
b) Văn tự và văn học
Văn tự
Tiếp thu hệ thống chữ viết của Án Độ, cư dân Đông Nam Á đã sáng tạo ra chữ viết riêng, như chữ việt của người Chăm, người Khơ-me, người Thái, người Môn, người Mã Lai,… Riêng người Việt tiếp thu một phần hệ thông chữ Hán của Trung Quốc và sáng tạo ra chữ Nôm. Chữ Hán và chữ Nôm được sử dụng rộng rãi trong một thời gian đài trước khi chữ Quốc ngữ ra đời ở Việt Nam.
Tấm bia của vua Ram Khăm-hèng (Thái Lan)
Văn học
– Đông Nam Á có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú với nhiều thẻ loại, như truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện thơ, ca dao, tục ngữ,… Những tác phẩm tiêu biểu là sử thi Đẻ đất đẻ nước (Việt Nam), truyền thuyết Pơ-rắc Thon (Cam-pu-chia), thần thoại Pun-hơ Nhan-hơ (Lào)…
– Văn học viết ở Đông Nam Á ra đời khá muộn. Từ khoảng thế kỉ X – thế kỉ XII, nhiều nước Đông Nam Á mới xuất hiện nền văn học viết. Một số tác phẩm tiêu biểu là Truyện Kiều (Việt Nam), Truyện sử Me-lay-w (Ma-lay-xi-a),…
– Văn học Đông Nam Á chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Án Độ, Trung Quốc, Ả Rập và phương Tây. Các sáng tác văn học của Cam-pu-chia được viết bằng chữ Phạn và chữ Khơ-me cỗ trên các văn bia và có sử dụng nhiều điền tích Hin-đu giáo. Văn học Việt Nam thời quân chủ chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc cả về hình thức và nội dung, trong khi văn học In-đô-nê-xi-a và Ma-lay-xi-a chịu ảnh hưởng của văn học Ả Rập và phương Tây.
c) Kiến trúc và điêu khắc
Kiến trúc
– Nghệ thuật kiến trúc ở Đông Nam Á phát triển mạnh và đạt nhiều thành tựu ở cả ba dòng kiên trúc: dân gian, tôn giáo và cung đình.
– Trong kiến trúc dân gian, nhà sàn được coi là một biểu tượng văn hoá thích hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm ở các địa hình khác nhau của cư dân Đông Nam Á.
– Kiến trúc tôn giáo đa dạng với hệ thống chùa, tháp, đền, miếu, lãng mộ, thánh đường, nhà thờ. Chịu ảnh hưởng của nhiêu loại hình kiên trúc du nhập từ bên ngoài, kiên trúc tôn giáo Đông Nam Á phô biên với các công trình kiên trúc Hin-đu giáo, Phật giáo, Hôi giáo và Thiên Chúa giáo.
– Kiến trúc cung đình điên hình là hệ thống cung điện tại các kinh đô tiêu biểu, như Thăng Long (Việt Nam), A-giút-thay-a (Thái Lan), Luông Pha-băng (Lào), Phnôm-pênh (Cam-pu-chia)…..
Cố đô A-giút-thay-a (Thái Lan)
Điêu khắc
– Nghệ thuật điêu khắc Đông Nam Á đạt đến trình độ cao, với nhiều tác phẩm được chạm khắc công phu, độc đáo và chịu ảnh hưởng rõ nét của điêu khắc Ấn Độ, Trung Quốc. Phổ biên là các tác phâm điêu khăc mang tính chât tôn giáo, như tượng thân, tượng Phật và phù điêu.
Tượng thần ở đề bay-on (Cam-pu-chia)