Kho tàng tài liệu học tập phong phú.

Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ – Ngữ văn 11 Tập 2 Kết Nối Tri Thức

1.1. Tìm hiểu chung

1.1.1. Tác giả Nguyễn Công Trứ

a. Tiểu sử:

– Nguyễn Công Trứ (1778- 1858) tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn.

– Là người có tài năng và nhiệt huyết trên nhiều lĩnh vực từ văn hóa, kinh tế đến chính trị, quân sự. Thế nhưng con đường làm quan lại trắc trở, gập ghềnh, thăng giáng thất thường.

– Là người ưa tự do, phóng túng, có cá tính có bản lĩnh, ngông ngạo.

– Là người yêu nước thương dân có nhiều đóng góp cho đất nước.

Nguyễn Công Trứ (1778- 1858)

Nguyễn Công Trứ (1778- 1858)

 

b. Sự nghiệp sáng tác

– Nguyễn Công Trứ sáng tác hầu hết bằng chữ Nôm.

– Ngoài ra còn có sáng tác bằng chữ Hán: khoảng 50 bài thơ và 60 ca trù và một bài phú nổi tiếng Hàn nho phong vị phú.

 

c.  Đặc điểm sáng tác:

– Tập trung vào ba chủ đề chính: chí nam nhi, triết lí sống nhàn, thế thái nhân tình đen bạc

– Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên có công đưa hát nói trở thành thể loại văn học dân tộc

⇒ Cùng với Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ là một trong hai thi sĩ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ 19.

1.1.2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác:

– Được sáng tác sau 1848, khi ông đã cáo quan về hưu và sống cuộc đời tự do nhàn tản.

 

b. Thể loại:

– Hát nói: là thể tổng hợp giữa ca nhạc và thơ, có tính chấ tự do thích hợp với việc thể hiện con người cá nhân.

– Hát nói đã khá phổ biến từ các thế kỉ trước, nhất là cuối thế kỉ XVIII, song Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên đã có công đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó.

 

c. Bố cục:

– Phần 1 (6 câu thơ đầu): quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan.

– Phần 2 (10 câu thơ tiếp): quan niệm sống ngất ngưởng khi về hưu.

– Phần 3 (còn lại): quãng đời khi cáo quan về hưu.

1.2. Đọc hiểu văn bản

1.2.1. Cảm hứng chủ đạo

– Tập trung vào từ “ngất ngưởng”

+ Tên nhan đề

+ Lặp lại bốn lần trong bài thơ

→ Nghĩa đen: chỉ sự vật ở độ cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngả

→ Nghĩa bóng: cách sống vượt lên trên những khuôn mẫu, gò bó. Thể hiện tính cách, thái độ cách sống ngang tàng của Nguyễn Công Trứ.

1.2.2. Quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan (sáu câu thơ đầu)

* Ngất ngưởng trên con đường công danh, sự nghiệp

– “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: Đây là quan niệm mà ông đã nói nhiều bài thơ, cho rằng con người sinh ra do “ý của trời đất”, nên phải có trách nhiệm, phải gánh vác việc đời (những việc trong vũ trụ đều thuộc trong phận sự của ta).

– Trong Nguyễn Công Trứ, quan niệm ấy gắn liền với ý tưởng “tu, tề, trị, bình”, với chí làm trai và chủ nghĩa anh hùng mà ông đeo đuổi với tất cả lòng tin tưởng, lạc quan trong suốt cuộc đời.

– “Ông Hi Văn…vào lồng”:

+ Hình ảnh ẩn dụ “vào lồng” → diễn tả cuộc đời làm quan, coi thường danh lợi của Nguyễn Công Trứ →cách nhìn mới mẻ, khác lạ so với nhà Nho đương thời

+ Coi nhập thế là việc làm trói buộc, làm quan sẽ mất tự do, gò bó nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng, hoài bão, trọn nghĩa vua tôi.

 

* Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình

– Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược).

→ Tài năng lỗi lạc, xuất chúng: văn võ song toàn.

– Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên.

→ Tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang, văn vẻ toàn tài.

=> Sáu câu thơ đầu là lời tự thuật chân thành của nhà thơ lúc làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng trung quân, lòng tự hào về phẩm chất, năng lực và thái độ sống tài từ, phóng khoáng,  khác đời ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng. Hay thái độ sống của người quân tử bản lĩnh, kiên trì lí tưởng.

1.2.3. Quan niệm sống ngất ngưởng khi về hưu (mười câu thơ tiếp theo)

* Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân:

– Cưỡi bò đeo đạc ngựa.

– Đi chùa có gót tiên theo sau.

→ Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng.

– Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.

→ Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng.

 

Quan niệm sống:

– “Được mất … ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian.

– “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên.

– “ Không …tục”: không phải là Phật, không phải là tiên, không vướng tục , sống thoát tục → sống không giống ai, sống ngất ngưởng.

=> Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả.

1.2.4. Quãng đời khi cáo quan về hưu (ba câu cuối)

– “Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố, ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật,…

– Nguyễn Công Trứ đã tự khẳng định mình là con người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này góp phần khẳng định thêm quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu bài thơ.

– Tự hào khẳng định tài năng và công lao của mình một cách đĩnh đạc hào hùng.

– “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”

=> Tuyên ngôn khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho gia thông thường. Đối với ông, ngất ngưởng phải có thực danh và thực tài. Vậy cái ngất ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.

1.3. Tổng kết

1.3.1. Về nội dung

Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm đắng cay của cuộc sống quan trường. Đó là thái độ coi thường danh lợi, vượt lên thói thường để sống cuộc sống tự do tự tại. Giữa cái xã hội mà mọi cá tính đều bị thủ tiêu thì cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ chẳng những bộc lộ một bản lĩnh cứng cỏi, sự thức tỉnh ý thức cá nhân mà còn thể hiện rõ một nhân sinh quan tiến bộ hiện đại.

1.3.2. Về nghệ thuật

– Vận dụng thành công thể hát nói.

– Giọng điệu thơ hóm hỉnh, khoa trương, ý vị trào phúng.

– Sử dụng điển tích, điển cố.