2.1. Khái niệm di truyền y học:
– Di truyền y học là ngành khoa học vận dụng những hiểu biết về di truyền học người vào y học, giúp cho việc giải thích, chẩn đoán, phòng ngừa, hạn chế các bệnh, tật di truyền và điều trị trong một số trường hợp bệnh lí
– Kiến thức di truyền y học
2.2. Bệnh di truyền phân tử
a. Khái niệm bệnh di truyền phân tử
– Bệnh di truyền phân tử là những bệnh di truyền được nghiên cứu cơ chế gây bệnh ở mức độ phân tử
b. Nguyên nhân của bệnh
– Phần lớn do đột biến gen
c. Cơ chế gây bệnh
– Alen bị đột biến có thể hoàn toàn không tổng hợp được prôtêin, tăng hay giảm số lượng prôtêin hoặc tổng hợp ra prôtêin bị thay đổi chức năng → làm rối loạn cơ chế chuyển hoá của tế bào và cơ thể ⇒ bệnh
d. Phương pháp điều trị
– Tác động vào kiểu hình nhằm hạn chế hậu quả của ĐBG
– Tác động vào kiểu gen (Liệu pháp gen): đưa gen lành vào thay thế cho gen ĐB ở người bệnh
e. Một số bệnh di truyền phân tử
– Bệnh thiếu máu tế bào hồng cầu hình liềm
– Bệnh loạn dưỡng cơ Đuxen (teo cơ)
– Bệnh Pheninkêto niệu
2.3. Hội chứng bệnh liên quan đến đột biến NST
a. Khái niệm hội chứng có liên quan đến đột biến NST
– Hội chứng có liên quan đến đột biến NST là các đột biến cấu trúc hay số lượng NST thường liên quan đến nhiều gen và gây ra hàng loạt tổn thương ở các cơ quan của người bệnh
b. Đặc điểm chung của bệnh
– Bệnh có tác động lớn trong thời kì thai nghén gây ra các ca sẩy thai ngẫu nhiên
– Bệnh thường xuất hiện lặp lại và không phải do di truyền từ đời trước
– Bệnh được tạo ra trong quá trình phát sinh giao tử, trong hợp tử hay trong những giai đoạn khác nhau trong quá trình thai nghén
– Những trường hợp còn sống chỉ là các lệch bội, việc thừa hay thiếu 1 NST làm rối loạn cân bằng hệ gen làm dẫn đến cái chết
c. Nguyên nhân gây bệnh
– Do đột biến cấu trúc hay số lượng NST
d. Hậu quả
– Phần lớn gây chết, tạo nên các ca sảy thai ngẫu nhiên. Các bệnh nhân còn sống chỉ là các lệch bội. Việc thừa hay thiếu chỉ 1 NST chỉ ảnh hưởng đến sức sống và sinh sản cá thể. Các bệnh hiểm nghèo thường do rối loạn cân bằng cả hệ gen
e. Một số bệnh thường gặp ở người
– Bệnh do biến đổi số lượng NST
+ Ví dụ: Bệnh Đao, bệnh Tơcnơ
– Bệnh Đao:
+ Trong tế bào soma của bệnh nhân Đao có 47 NST (NST thừa thuộc cặp số 21)
+ Cặp NST số 21 không phân li trong giảm phân tạo ra 2 loại giao tử: (n+1) và (n- 1). Trong thụ tinh, giao tử (n+ 1) này kết hợp với giao tử bình thường (n) tạo thành hợp tử (2n+1) có 3 NST số 21 (thể 3) gây ra bệnh Đao
+ Bệnh Đao phổ biến nhất trong các bệnh NST ở người, NST số 21 rất nhỏ nên sự mất cân bằng do phần gen thừa ra ít nghiêm trọng nên bệnh nhân sống sót nhưng người bệnh Đao thường thấp bé, cổ rụt, dị tật tim, ống tiêu hóa, khoảng 50% chết trong 5 năm đầu.
+ Có mối liên hệ khá chặt chẽ giữa tuổi mẹ với khả năng sinh con mắc bệnh Đao
– Bệnh do biến đổi cấu trúc NST
+ Bệnh “Mèo kêu”, do mất 1 phần NST số 5 dẫn đến hậu quả: trẻ có tiếng khóc như mèo kêu, thiểu năng trí tuệ chỉ nói được vài tiếng …
2.4. Bệnh ung thư
– Ung thư là hiện tượng tế bào phân chia một cách không kiểm soát tạo thành các khối u và sau đó di căn
– Nguyên nhân ung thư ở mức phân tử đều liên quan đến biến đổi cấu trúc ADN. Phòng ngừa ung thư cần bảo vệ môi trường sống trong sạch, hạn chế các tác nhân gây ung thư
– Bệnh ung thư có nguyên nhân do đột biến gen trội nhưng bệnh ung thư không thể di truyền được vì đột biến xuất hiện ở tế bào sinh dưỡng (soma)
– Hiện tại có nhiều giả thuyết cho rằng khả năng gây bệnh ung thư thì có thể di truyền được. Khả năng gây ung thư có thể xem như là khả năng phản ứng của một gen nào đó trước các tác nhân của môi trường, điều này giải thích tại sao có những dòng họ có nhiều người mắc bệnh ung thư.