1.1. Tìm hiểu chung
1.1.1. Tác giả Xuân Diệu
a. Cuộc đời:
– Xuân Diệu (1916 – 1985), tên thật là Ngô Xuân Diệu, quê ông ở Hà Tĩnh nhưng được sinh ra ở Bình Định. Cha là Ngô Xuân Thọ, và mẹ là Nguyễn Thị Hiệp.
– Năm 1927, ông học ở Quy Nhơn.
– Năm 1937 ông ra Huế học sau đó tốt nghiệp tú tài, Xuân Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo.
– Ông trở thành thành viên của Tự Lực Văn Đoàn.
Nhà thơ Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình”
(1916 – 1985)
b. Sự nghiệp sáng tác:
– Tiểu luận phê bình: Đi trên đường lớn, Và cây đời mãi xanh tươi, Mài sắt nên kim, Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ…
+ Thơ: Thơ thơ, Gửi hương cho gió, Một khối hồng, Thanh ca, Tôi giàu đôi mắt, Riêng chung, Mẹ con, Ngôi sao, Sáng, Dưới sao vàng…
+ Văn xuôi: Trường ca, Phấn thông vàng, Việt Nam trở dạ, Việt Nam nghìn dặm, Ký sự thăm nước Hung, Triều lên…
+ Dịch thơ: Những nhà thơ Bungari, Thi hào Nadim Hitmet, Vây giữa tình yêu…
c. Đặc điểm nghệ thuật:
– Thơ của ông mang làn điệu tươi trẻ, cái nhìn về tuổi trẻ, về cuộc đời con người thấm đẫm trong máu của ông.
– Ông ý thức được sự chảy trôi của thời gian, đặc biệt là tuổi trẻ.
1.1.2. Tác phẩm
a. Thể loại:
Bài thơ thuộc thể thơ bảy chữ.
b. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
Tác phẩm Nguyệt Cầm in trong tập “Gửi hương cho gió” tập thơ xuất bản năm 1945.
c. Bố cục văn bản:
– Phần 1: Một không gian thiên nhiên tràn ngập ánh trăng và tiếng đàn.
– Phần 2: Nỗi sầu cô đơn của thi nhân trong cảnh đàn trăng.
1.2. Đọc hiểu văn bản
1.2.1. Hình ảnh “mỗi giọt rơi tàn”
Giọt |
Rơi |
giọt đàn nếu như “giọt” là đơn vị của chất lỏng thì “giọt rơi tàn như lệ ngân” lại là giọt ánh sáng, giọt âm thanh. |
tiếng vang thấy được cả ánh sáng “tàn”, đem so sánh với “lệ” là giọt chất lỏng tạo cho “giọt” có cấu trúc muôn hình thể: âm thanh biến thành ánh sáng, ý thơ lung linh, chính tâm hồn tinh tế của thi nhân đã “kết” tiếng đàn kia từ âm, sắc thành giọt lỏng. |
Âm thanh tích tụ mối sầu ở cảnh, ở tình kết thành giọt rơi giữa đêm vắng, giọt âm thanh cứ chơi vơi giữa lòng vũ trụ, giữa lòng thi sĩ. Dư âm của nó cứ lay động nhẹ trái tim nhà thơ, cứ đọng dần, đọng dần cho đầy tâm hồn cô vắng. |
1.2.2. Hình dung âm thanh “Long lanh tiếng sỏi”
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
– Câu thơ đảo từ “long lanh” lên đầu cho ta thấy ánh sáng phát ra từ tiếng đàn, đọng vào sỏi đá.
– Cái cảm giác xù xì, trầm đục ấy lẽ ra phải được cảm nhận bằng thị giác nay “vang vọng” thì đã chuyển sang thính giác.
– Tiếng đàn đẹp và hay nay lại là tiếng vang của những mối hận trong lòng, những mối hận đã lên tiếng.
=> Nhận xét: Thi nhân đã thu lòng mình vào khí thu lạnh lẽo, ánh trăng tỏ ngời và nỗi niềm uất hận từ tiếng đàn, những nỗi niềm ấy còn tồn tại trong cả sỏi đá.
Hình ảnh đàn nguyệt (nguyệt cầm)
1.2.3. Mối quan hệ giữa hình ảnh “biển” và “chiếc đảo”
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê,
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề.
– “Biển”: Không gian bao quanh, tiếng đàn hoá thành đại dương chứa âm thanh, mỗi giọt âm thanh vừa là trăng, là bạc, là pha lê, là một bể sầu vô định, mênh mông, choáng ngợp mà trên đó có một linh hồn – chiếc đảo đang bơ vơ.
– “Chiếc đảo…”: là nỗi lòng tự bạch của thi sĩ nói riêng và một tầng lớp lúc bấy giờ.
=> Ý nghĩa: Cả hai hình ảnh đều gợi không gian mênh mông, rộng lớn, chứa đựng nồi sầu vô định của thi sĩ, gợi lên cảnh tượng con người thật bé nhỏ, khó xác định, cứ bị ngợp dần.
1.3. Tổng kết
1.3.1. Về nội dung
Nguyệt Cầm là một bài thơ nổi tiếng của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu. Ông chịu ảnh hưởng của trường phái văn Pháp, bài thơ Nguyệt cầm có nội dung là trường hợp thể hiện tuyệt vời quan niệm về sự tương giao giữa các giác quan của Baudelaire: tiếng nhạc, ánh sáng và hơi lạnh – thính giác, thị giác và xúc giác, ba giác quan đều bén nhọn “tương giao” với nhau, diễn tả những rung cảm.
1.3.2. Về nghệ thuật
– Ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu và tinh tế.
– Sử dụng nhịp thơ độc đáo.
– Ngòi bút uyên bác và tạo được cái riêng.