1.1. Các nhóm nước
– Dựa theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội, các nước trên thế giới phân chia thành nước phát triển và nước đang phát triển dựa trên các chỉ tiêu chủ yếu như sau:
+ Tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người (GNI/người);
+ Cơ cấu kinh tế;
+ Chỉ số phát triển con người (HDI).
Tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người (GNI/người):
– Được tính bằng cách lấy tổng thu nhập quốc gia chia cho số dân của một nước.
– Chỉ tiêu này phản ánh mức sống và năng suất lao động của người dân trong một nước.
– Dựa trên chỉ tiêu này, Ngân hàng Thế giới phân chia các nước thành:
+ Nước có thu nhập cao;
+ Nước có thu nhập trung bình cao;
+ Nước nước có thu nhập trung bình thấp;
+ Nước có thu nhập thấp.
Cơ cấu kinh tế:
– Là tập hợp các ngành, lĩnh vực và bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định với nhau trong đó quan trọng nhất là cơ cấu ngành kinh tế.
– Cơ cấu ngành kinh tế: Là chỉ tiêu phản ánh mức độ đóng góp của các ngành kinh tế vào GDP của một nước, thể hiện trình độ phát triển khoa học – công nghệ, lực lượng sản xuất, … của nền sản xuất xã hội.
– Bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ.
Chỉ số phát triển con người (HDI):
– Là thước đo tổng hợp phản ánh sự phát triển của con người trên các phương diện: sức khoẻ, học vấn và thu nhập.
– Dựa vào chỉ tiêu này, Liên hợp quốc phân chia các nước thành:
+ Nước có HDI rất cao (từ 0,800 trở lên);
+ Nước có HDI cao (từ 0,700 đến dưới 0,800);
+ Nước có HDI trung bình (từ 0,550 đến dưới 0,700);
+ Nước có HDI thấp (dưới 0,550).
Hình 1. Bản đồ HDI, GNI/người và cơ cấu GDP của một số nước trên thế giới năm 2020
1.2. Sự khác biệt về kinh tế – xã hội của các nhóm nước
1.2.1. Về kinh tế
– Các nước phát triển:
+ Có quy mô GDP lớn và tốc độ tăng trưởng GDP khá ổn định.
+ Tiến hành công nghiệp hoá từ sớm và thường tiên phong dẫn đầu trong các cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới (như Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức,…).
+ Ngành dịch vụ có đóng góp nhiều nhất trong GDP.
+ Hiện nay, các nước phát triển đang tập trung vào đổi mới và phát triển các sản phẩm có hàm lượng khoa học – công nghệ và tri thức cao.
– Các nước đang phát triển:
+ Có quy mô GDP trung bình và thấp nhưng tốc độ tăng trưởng GDP khá cao.
+ Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hoá với tỉ trọng các ngành công nghiệp và xây dựng, dịch vụ có xu hướng tăng.
+ Một số nước đang phát triển bắt đầu chú trọng phát triển các lĩnh vực có hàm lượng khoa học – công nghệ và tri thức cao.
– Ví du: Bảng. Quy mô GDP theo giá hiện hành và tốc độ tăng GDP của một số nước năm 2021
(Nguồn: Ngân hàng Thế giới, 2022)
1.2.2. Về xã hội
– Các nước phát triển:
+ Tỉ lệ tăng tự nhiên của dân số thấp, cơ cấu dân số già dẫn đến thiếu hụt lao động và tăng chi phí phúc lợi xã hội trong tương lai.
+ Quá trình đô thị hóa sớm, tỉ lệ dân thành thị cao, cơ sở hạ tầng hiện đại và đồng bộ.
+ Người dân có chất lượng cuộc sống, tuổi thọ trung bình và số năm đi học trung bình của người từ 25 tuổi trở lên cao.
+ Các dịch vụ y tế, giáo dục có chất lượng tốt.
– Các nước đang phát triển:
+ Tỉ lệ tăng tự nhiên của dân số đang có xu hướng giảm nhưng ở một số quốc gia vẫn còn cao.
+ Phần lớn các nước đang phát triển có cơ cấu dân số trẻ và đang có xu hướng già hoá.
+ Tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, song tỉ lệ dân thành thị chưa cao.
+ Chất lượng cuộc sống của người dân ở mức cao, trung bình và thấp; tuổi thọ trung bình và số năm đi học trung bình của người từ 25 tuổi trở lên đang tăng dần.
+ Các dịch vụ y tế, giáo dục đang dần được cải thiện.
Hình 2. Một góc thành phố Tô-ky-ô, Nhật Bản