1.1. Tầm quan trọng của biển Đông đối với Việt Nam
– Việt Nam có đường bờ biển dài khoảng 3.260 km, giáp với Biển Đông ở ba phía đông, nam và tây nam. Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
a. Về quốc phòng, an ninh
– Biển Đông là tuyến phòng thủ phía đông của Việt Nam. Hệ thống đảo, quần đảo trên Biển Đông hợp thành tuyến phòng thủ bảo vệ vùng trời, vùng biển và đất liền của đất nước.
Một góc đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị) – “vọng gác tiền tiêu” của Việt Nam ở phía nam vịnh Bắc Bộ
b. Về phát triển các ngành kinh tế trọng điểm
– Vị trí địa lý và tài nguyên của Biển Đông tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển đa dạng với các ngành mũi nhọn như: thương mại biển, khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, khai thác khoáng sản, sửa chữa và đóng tàu, du lịch, và nhiều ngành khác.
– Trữ lượng cá ở vùng biển Việt Nam có khả năng khai thác hằng năm đạt khoảng 2,3 triệu tấn. Trữ lượng dầu mỏ và khí đốt được xác minh là gần 550 triệu tấn dầu và trên 610 tỷ m3 khí.
– Vùng ven biển Việt Nam có tiềm năng lớn về quặng sa khoáng như ti-tan, thiếc, vàng, sắt, man-gan, đất hiếm. Trong đó, cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước.
– Việt Nam có đường bờ biển dài với nhiều bãi cát, vịnh và hang động tự nhiên đẹp như Hạ Long, Cửa Lò, Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc,… tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển ngành du lịch. Nước có thể xây dựng các cảng biển nước sâu và cảng trung bình trên bờ biển như Cái Lân, Nghi Sơn, Dung Quất, Vân Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang.
Một góc đảo Phú Quốc (Kiên Giang)
– Biển Đông là cửa ngõ để Việt Nam giao lưu kinh tế và hợp tác với các nước trên thế giới, đặc biệt là khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Việc vận chuyển hàng hoá xuất – nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu được thực hiện bằng đường biển qua Biển Đông.
1.2. Lịch sử bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
a. Quá trình Việt Nam xác lập chủ quyền và quản lí đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
– Các bằng chứng khảo cổ học và nguồn sử liệu lịch sử đã chứng minh rằng từ đầu Công nguyên, người Việt đã có hoạt động kinh tế và văn hoá tích cực ở Biển Đông. Việt Nam có những bằng chứng tin cậy và giá trị pháp lý cao từ các văn bản hành chính và tư liệu lịch sử, qua các thời kỳ đã xác định và thực hiện quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định chủ quyền của mình.
– Trước năm 1884
+ Nhiều tập bản đồ của các triều đại quân chủ Việt Nam và người phương Tây đã xác nhận rõ ràng rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam.
Bản đồ Đại Nam nhất thồng toàn đồ (1838)
+ Các công trình sử học và địa lí của Việt Nam đã ghi chép chi tiết về lãnh thổ và hoạt động bảo vệ chủ quyền của các chính quyền chúa Nguyễn, vua Lê – chúa Trịnh, triều Tây Sơn và triều Nguyễn tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, như Đại Việt sử ký tục biên, Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục, Hoàng Việt địa dư chi, Đại Nam nhất thống chí,…
+ Chủ quyền và quản lí liên tục của quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được khẳng định qua việc thành lập và hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX.
+ Dưới triều đình vua Gia Long và vua Minh Mạng, việc khẳng định chủ quyền ở quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đã được tiến hành bằng cách tổ chức đội thuỷ quân và cử thuỷ quân đến các đảo này hàng năm. Nhà vua cũng coi việc vẽ bản đồ và bảo vệ an toàn cho tàu thuyền qua lại khu vực Biển Đông là trọng trách của Nhà nước. Năm 1835, vua Minh Mạng cũng cho xây dựng miếu và trồng cây ở một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.
+ Dưới triều đại chúa Nguyễn, việc tổ chức đơn vị hành chính của quần đảo Hoàng Sa đã được thực hiện. Thời chúa Nguyễn, Hoàng Sa thuộc phủ Quảng Nghĩa và sau đó thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
– Từ năm 1884 đến năm 1975
+ Vào cuối thế kỉ XIX, chính quyền thực dân Pháp (là đại diện ngoại giao của triều Nguyễn) tiếp tục xác nhận chủ quyền của Việt Nam và quản lý, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo quy định của pháp luật quốc tế.
+ Năm 1909, người Pháp đã xác nhận rằng các cuộc khảo sát của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa là trái phép và quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam.
+ Sau đó, chính quyền Pháp tập trung nghiên cứu việc xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cuộc khảo sát khoa học đầu tiên của nhà khoa học Pháp đã diễn ra tại quần đảo Hoàng Sa năm 1925 và tại quần đảo Trường Sa năm 1927.
+ Quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa sau đó được sáp nhập vào tỉnh Bà Rịa và tỉnh Thừa Thiên của Việt Nam. Từ những năm 30 của thế kỉ XX, người Pháp thực hiện xây dựng các đèn mốc chủ biển, trạm khí tượng, và trạm với quyền điện, cùng với các hoạt động khảo sát khoa học.
Cột hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa được xây dựng năm 1937
– Tháng 9 năm 1951, Việt Nam tiếp tục tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội nghị Hoà bình Xan Phran-xi-xcô mà không gặp sự phản đối từ các quốc gia tham dự hội nghị.
– Từ năm 1954 đến năm 1975, hai quần đảo được đặt dưới sự quản lí hành chính của chính quyền Sài Gòn.
– Chính quyền Sài Gòn đã thực thi chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua ban hành các văn bản hành chính, cử quân đồn trú, dựng bia chủ quyền và treo cờ trên các đảo chính. Quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay) theo mặt hành chính.
– Từ ngày 13 đến ngày 28 – 4 – 1975, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo và triển khai lực lượng thực thi chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.
– Từ sau năm 1975 đến nay
– Sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục quản lí và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, thành lập các đơn vị hành chính tại hai quần đảo này.
– Năm 1982, huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa được thành lập. Huyện Trường Sa có các đơn vị hành chính nhỏ hơn như thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây, và xã Sinh Tồn, nằm trên các đảo và đá của quần đảo Trường Sa.
b. Cuộc đấu tranh bảo vệ, thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông
– Nhà nước Việt Nam qua các thời kì lịch sử có những hoạt động đấu tranh nhằm bảo vệ, thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bảng khái quát về cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam
Từ sau năm 1975 đến nay |
– Từ tháng 3 – 1988 đến nay, Việt Nam kiên trì đấu tranh ngoại giao và pháp lý để bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và duy trì môi trường hoà bình, hợp tác trên Biển Đông. – Tháng 3 – 1988, nhiều chiến sĩ Hải quân Việt Nam đã hy sinh anh dũng khi bảo vệ các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc. |
Từ năm 1954 đến năm 1975 |
– Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng và bất khả xâm phạm. – Tháng 1 – 1974, quân đội Sài Gòn thất bại trong việc bảo vệ quần đảo Hoàng Sa trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc. |
Từ năm 1884 đến năm 1954 |
– Năm 1946, chính quyền Pháp cho hải quân trú đóng ở các đảo chính của quần đảo Trường Sa và yêu cầu quân đội Trung Hoa Dân quốc rút khỏi các đảo chiếm đóng trái phép. – Năm 1939, chính quyền Pháp gửi công hàm phản đối việc Nhật Bản kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. |
Trước năm 1884 |
– Dưới triều Nguyễn và Vương triều Tây Sơn, các đội thuỷ quân Hoàng Sa và Bắc Hải đã được tổ chức để bảo vệ và thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. – Những đội này có nhiệm vụ tuần tiễu giữ gìn vùng biển, ứng chiến với nạn cướp biển và các xâm phạm tại các đảo. |
Đài tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma (Khánh Hòa)
1.3. Chủ trương của Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông
– Nhà nước Việt Nam đang thực hiện các biện pháp toàn diện trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế và quân sự để bảo vệ quyền, chủ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông.
– Việt Nam cam kết giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông bằng biện pháp hoà bình, tôn trọng lẫn nhau và tuân thủ luật pháp quốc tế.
– Nhằm tăng cường tiềm lực quốc gia phục vụ cho việc bảo vệ chủ quyền biển đảo, Việt Nam thực hiện phát triển kinh tế biển cùng với tăng cường quốc phòng anh ninh trên biển.
Tàu Hộ vệ tên lửa 016 – Quang Trung của Hải quân Nhân dân Việt Nam