Kho tàng tài liệu học tập phong phú.

Dương phụ hành – Cao Bá Quát – Ngữ văn 11 Tập 1 Kết Nối Tri Thức

1.1. Tìm hiểu chung

1.1.1. Tác giả Cao Bá Quát

a. Tiểu sử:

– Cao Bá Quát (1809 – 1855), tự Chu Thần, hiệu Mẫn Hiên, lại có hiệu Cúc Đường, quê ở làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội.

– Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là trẻ thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Sau này, ông tham gia nhiều kì thi, nhiều lần bị đánh trượt, cũng nhiều lần bị giam giữ nhưng cuối cùng ông vẫn giữ những chức vụ khác nhau trong triều đình nhà Nguyễn.

– Cao Bá Quát là quân sư trong cuộc nổi dậy Mỹ Lương nhưng đã bị triều đình nhà Nguyễn xử trảm, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam.

Cao Bá Quát - Danh sĩ bất phùng thời

Cao Bá Quát (1809 – 1855)

b. Sự nghiệp sáng tác:

Ngay khi Cao Bá Quát tham gia cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương (Sơn Tây), các tác phẩm của ông đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành, nên đã bị thất lạc không ít. Tuy vậy, trước 1984, nhóm biên soạn sách Thơ văn Cao Bá Quát, đã tìm đến kho sách cổ của Thư viện Khoa học kĩ thuật trung ương (Hà Nội), và sau khi loại trừ những bài chắc chắn không phải của ông, thì số tác phẩm còn sót lại cũng còn được trên ngàn bài được viết bằng thứ chữ Nôm và chữ Hán.

 

c. Phong cách nghệ thuật:

Thơ văn ông bộc phát thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX.

1.1.2. Tác phẩm

a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:

Dương phụ hành được Cao Bá Quát sáng tác trong chuyến xuất dương hiệu lực năm 1844. Bài thơ được viết theo thể hành, một thể của thơ cổ phong.

 

b. Thể loại:

Dương phụ hành thuộc thể loại hành (một thể thơ của thơ cổ phong).

Nguyên tác chữ Hán: Bài thơ Dương phụ hành của Cao Bá Quát

Nguyên tác chữ Hán: Bài thơ Dương phụ hành của Cao Bá Quát

 

c. Bố cục văn bản:

Phần 1: 7 câu đầu: Hình ảnh người thiếu phụ Tây dương

Phần 2: câu thơ cuối: Tâm trạng của nhà thơ

1.2. Đọc hiểu văn bản

1.2.1. Hình ảnh người thiếu phụ Tây dương

* Hình ảnh người thiếu phụ:

– Thời gian: buổi tối

– Không gian: dưới bóng trăng thanh

– Sự việc: Người phụ nữ Tây phương tựa vai người chồng trong đêm trăng thâu tíu tít trò chuyện, thân mật.

– Các chi tiết miêu tả người thiếu phụ phương Tây: áo trắng phau, tựa vào vai chồng, kéo chồng thì thầm nói, tay cầm một cốc sữa, nũng nịu đòi chồng đỡ dậy.

→ Tất cả những chi tiết đó làm nổi bật lên hình ảnh một người phụ nữ đang làm nũng với chồng của mình. Nàng muốn được chồng yêu mến, chiều chuộng và cảm thấy hạnh phúc khi làm những hành động đấy. Đây cũng là cách tác giả muốn nói đến người phương Tây, họ luôn cởi mở, phóng khoáng và không e ngại khi làm những hành động như vậy ở nơi công cộng bởi theo họ vợ chồng yêu nhau là việc hết sức bình thường.

 

* Cảm xúc của tác giả khi nhìn thấy cảnh tượng:

“Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau”

→ Câu thơ phần nào cho thấy sự phóng túng, sa hoa trong cách ăn mặc của người phương Tây khiến tác giả có phần lạ lẫm.

“Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu

Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói

Kéo áo, rì rầm nói với nhau”

→ Hình ảnh người thiếu phụ tựa vai chồng một cách âu yếm, hạnh phúc khiến tác giả có chút ghen tị khi nhìn lại hoàn cảnh của mình.

“Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay

Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!”

→ Khung cảnh ban đêm tĩnh lặng, gió lạnh khiến nỗi buồn của tác giả càng dâng trào.

“Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy”

→ Người thiếu phụ tiếp tục làm nũng chồng khiến tác giả càng thêm buồn vì tình cảnh lẻ loi, cô độc nơi đất khách quê người của mình.

“Biết đâu nỗi khách biệt ly này”

→ Nỗi buồn, cô đơn của tác giả được đẩy lên cao trào và thốt ra thành lời, tác giả thương thay cho thân phận đất khách quê hương và tình cảnh lẻ loi, cô độc của mình.

1.2.2. Tâm trạng của nhà thơ

– Câu thơ cuối cùng tương phản với bảy câu thơ trước đó. Nhà thơ tự hỏi chính mình:

“Biết đâu nỗi khách biệt li này”

→ Câu thơ cuối trở thành câu thơ hay nhất của bài Dương phụ hành. Chúng ta khâm phục, chia sẻ với những khát vọng nhân đạo chủ nghĩa ở nhà thơ. Chúng ta càng đau đớn với tấm lòng giàu tình yêu thương của ông. Cao Bá Quát sừng sững một khí phách và cũng biết bao ân tình của một trái tim dào dạt, mềm yếu!

– Người thì đang hạnh phúc sum họp, còn nhà thơ thì đang sống trong nỗi đau buồn và cô đơn của cảnh biệt ly. Nỗi đau càng được nhân lên nhiều lần trong cảnh ngộ phải đi “dương trình hiệu lực”, tài năng bị dập vùi, công danh bị dở dang, một kẻ sĩ trải qua nhiều cay đắng trên con đường hoan lộ. Chỉ một câu thơ mà nói được bao điều tâm sự.

→ Tâm trạng của nhân trạng nhân vật trữ tình trong câu thơ kết chính là nỗi nhớ khi xa quê, xa gia đình. Bên cạnh đó, câu thơ còn thể hiện tính nhân văn, một góc nhìn mới rất hiện đại, ông như được mở mang đầu óc sau chuyến đi đó.

=> Qua bài thơ, người đọc thấy được cái nhìn đa sầu, đa cảm và tư tưởng tiến bộ của nhà thơ. Đpồng thời, cũng thể hiện tâm hồn phóng khoáng, đầy nhân văn của tác giả, tác giả cũng mong muốn có một gia đình ấm no, hạnh phúc, tác giả cũng được khai sáng hơn sau chuyến đi này, mở ra một góc nhìn thoáng hơn, mới hơn, hiện đại hơn.

1.3. Tổng kết

1.3.1. Về nội dung

Dương phụ hành là một bài thơ hay khi tác giả khắc họa chân dung người thiếu phụ Tây Dương, qua đó nhà thơ nghĩ về giai nhân và tài tử, về hạnh phúc trong sum họp và nỗi đau trong li biệt. Trong chuyến đi này, ông có dịp tiếp xúc với những người châu Âu, thấy nhiều điều mới lạ.

1.3.2. Về nghệ thuật

– Thể hành viết lối đơn giản nhưng dễ hiểu.

– Lời thơ mộc mạc chứa ý nghĩa sâu sắc.