Kho tàng tài liệu học tập phong phú.

Đất nước – Nguyễn Đình Thi – Ngữ văn 10 Tập 2 Cánh Diều

1.1. Tìm hiểu chung

1.1.1. Tác giả Nguyễn Đình Thi

a. Tiểu sử cuộc đời

Nguyễn Đình Thi (1924–2003)

– Nguyễn Đình Thi (1924–2003) là một nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học và nhạc sĩ Việt Nam thời hiện đại.

– Ông sinh ngày 20 tháng 12 năm 1924 ở Luông Pra Băng (Lào). Tuy nhiên, nguyên quán của ông là ở làng Vũ Thạch, hiện nay là phố Bà Triệu thuộc địa phận phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cha ông là một viên chức Sở bưu điện Đông Dương, từng sang làm việc ở Lào.

– Những năm 1940 ông tham gia Tổ Văn hóa Cứu quốc. Năm 1945 ông tham dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào, sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc.

– Ông thuộc thế hệ các nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Ông viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Ông được nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.

– Sau năm 1954 ông tham gia công tác quản lý văn học nghệ thuật. Từ năm 1958 đến năm 1989 làm Tổng Thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, ông là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật.

– Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 2003 tại Hà Nội. Ông có con trai là nhà văn nổi tiếng Nguyễn Đình Chính.

b. Phong cách sáng tác

– Thơ ông tự do, phóng khoáng mà vẫn hàm súc, sâu lắng, suy tư và có nhiều tìm tòi theo hướng hiện đại.

– Những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Đình Thi là sự phản ánh kịp thời cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến. Các tác phẩm của ông đều mang tính thời sự về các cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam.

c. Tác phẩm chính

– Thơ: Người chiến sĩ (1958); Bài thơ Hắc Hải (1958); Dòng sông trong xanh (1974); Tia nắng (1985); Đất nước (1948 – 1955); Nhớ; Lá đỏ…

– Tiểu thuyết: Xung kích, Vỡ bờ; Thu đông năm nay (1954), Bên bờ sông Lô (1957), Vào lửa (1966), Mặt trận trên cao (1967)

– Phê bình văn học: Tiểu luận Nhận đường.

– Kịch: Con nai đen (1961); Hoa và Ngần (1975); Giấc mơ (1983); Rừng trúc (1978); Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979); Người đàn bà hóa đá (1980); Tiếng sóng (1980); Cái bóng trên tường (1982); Trương Chi (1983); Hòn Cuội (1983 – 1986).

1.1.2. Tác phẩm Đất nước

a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

– Bài thơ được sáng tác trong khoảng thời gian dài, từ năm 1948 đến 1955.

– Gần như trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi đã tham gia chiến dịch, cùng sống, cùng chịu nhiều khói lửa chiến tranh. Trong khoảng thời gian ấy ông sáng tác một vài bài thơ như là “Sáng mát trong như sáng năm xưa”, “Đêm mít tinh”,… Bài thơ “Đất nước” là sự tổng hợp và sáng tạo thêm từ hai bài thơ trên.

b. Thể loại

– Thơ tự do.

c. Bố cục 

Gồm 3 phần:

– Phần 1. Từ đầu đến “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”: Mùa thu của quá khứ.

– Phần 2. Tiếp theo đến “Những buổi ngày xưa vọng nói về”: Mùa thu của hiện tại.

– Phần 3. Còn lại: Niềm suy tư về đất nước.

d. Tóm tắt nội dung văn bản

Bài thơ thể hiện cảm hứng về đất nước. Đó là những suy cảm về một đất nước giàu đẹp, hiền hòa; về lịch sử cách mạng của một đất nước đau thương; lầm thân đã đứng lên anh dũng chiến đấu và chiến thắng anh hùng.

1.2. Đọc hiểu văn bản 

1.2.1. Mùa thu trong hoài niệm

– Tín hiệu của mùa thu Hà Nội: “sáng mát trong và gió thổi mùa thu hương cốm mới”. Đây là những nét đặc trưng quen thuộc của mùa thu Bắc Bộ, mùa thu Hà Nội.

– Bức tranh thiên nhiên mùa thu thi vị, mang đậm đặc trưng mùa thu Hà Nội nhưng thoáng buồn: những buổi sáng mát trong, gió thổi mang theo hương cốm mới, thời tiết buổi sáng se lạnh, những con phố xao xác lá vàng…

– Hình ảnh con người: ra đi đầy buồn bã, lưu luyến nhưng cũng đầy cương quyết “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.

=> Mùa thu Hà Nội đẹp nhưng buồn thấm thía bởi nhân vật trữ tình phải ly biệt Hà Nội để đi tìm con đường thoát vòng nô lệ đau thương, tủi nhục.

1.2.2. Mùa thu của hiện tại

– Tiếng reo vui trước mùa thu hiện tại độc lập, hạnh phúc: “Tôi đứng reo vui giữa núi đồi”

– Mùa thu cách mạng tươi đẹp, sôi nổi: không gian nghệ thuật dịch chuyển từ những phố dài xao xác buồn bã sang không gian núi rừng tươi mới, tràn đầy sức sống (rừng tre phấp phới, trời thu thay áo mới) với những âm thanh ngân nga, vang vọng; trạng thái nhân vật trữ tình vui vẻ, hạnh phúc hòa trong sự phấn chấn của tạo vật (phấp phới, thiết tha).

– Mùa thu của độc lập, tự chủ: “Trời xanh đây là của chúng ta… Những dòng sông đỏ nặng phù sa”.

=> Đoạn thơ thể hiện tình yêu tha thiết, niềm tự hào về quê hương đã được độc lập, có truyền thống anh hùng, bất khuất.

1.2.3. Niềm suy tư về đất nước

a. Đất nước đau thương trong chiến tranh:

– Đất nước chìm trong máu và nước mắt: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu/Dây thép gai đâm nát trời chiều”, “Bát cơm chan đầy nước mắt/Bay còn giằng khỏi miệng ta”.

– Đất nước từ những năm tháng đau thương để tạo thành nỗi căm hờn: “Từ những năm đau thương chiến đấu/Ðã ngời lên nét mặt quê hươngTừ gốc lúa bờ tre hồn hậu/Ðã bật lên những tiếng căm hờn”

b. Đất nước vùng lên giành lấy chiến thắng vinh quang, chói lọi:

– Vượt lên đau thương để lao động và chiến đấu, chống lại kẻ thù: Những đêm dài hành quân nung nấu/Xiềng xích chúng bay không khóa được/ Lòng dân ta yêu nước thương nhà”.

– Hình ảnh đất nước kì vĩ, chói lọi, quật khởi bừng dậy giữa hiện thực rung trời chuyển đất: “Ôm đất nước những người áo vải/Đã đứng lên thành những anh hùng, Nước Việt Nam từ máu lửa/Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.

– Nghệ thuật đặc sắc trong đoạn thơ: Hình ảnh sáng tạo đầy sức gợi hình gợi cảm, thủ pháp đối lập, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đậm nét.

=> Bức tranh đất nước được tạo nên bằng chất liệu hiện thực (đường nét tương phản đối lập). Hình tượng giàu tính sử thi, là cao trào của cảm xúc, thâu tóm được tư tưởng toàn bài.

1.3. Tổng kết

1.3.1. Về nội dung

– Bài thơ mở ra một không gian đất nước rộng lớn, tươi đẹp, nên thơ. Qua đó, tác giả bộc lộ tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, lòng tự hào về một đất nước quật cường vươn lên từ bom đạn.

1.3.2. Về nghệ thuật

– Hình ảnh thơ mới mẻ, sáng tạo.

– Ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc.

– Sử dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật.