1.1. Tìm hiểu chung
1.1.1. Tác giả
– Nguyễn Quang Thiều sinh 1951, quê tại thôn Hoàng Dương (Làng Chùa), xã Sơn Công, huyên Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
– Là nhà thơ hiện đại tiêu biểu của làng văn học Việt Nam. Ngoài ra còn viết văn, viết báo, tiểu thuyết, soạn kịch…
– Hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á – Phi; Giám đốc – Tổng Biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
– Đến với thơ khá muộn, khi ông 25 tuổi.
– Phong cách thơ: viết về các đề tài gần gũi, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại làm nên cái mới rất riêng của nhà thơ hiện đại, đậm màu sắc tượng trưng, siêu thực.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
1.1.2. Tác phẩm
a. Thể loại: Tác phẩm thuộc thể loại thơ tự do.
b. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
In trong tập thơ Sự mất ngủ của lửa (1992). Tập thơ đã được Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993.
c. Bố cục:
– Phần 1: Từ đầu đến “một mảnh sông đêm”: Sông Đáy trong miền kí ức thưở ấu thơ.
– Phần 2: Từ “Năm tháng sống xa quê” đến “giàn dụa nước mưa sông”: Niềm nhớ thương quê nhà da diết trong những năm tháng xa quê.
– Phần 3: còn lại: Sông Đáy và nỗi xúc động nghẹn ngào ngày trở về quê hương.
1.2. Đọc hiểu văn bản
1.2.1. 9 câu đầu: Hình ảnh Sông Đáy gắn với mẹ và tuổi thơ đầy nhọc nhằn
– Câu 1: Nguyễn Quang Thiều hồi tưởng về sông Đáy.
+ Sông Đáy: là quê hương, nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên có dòng sông Đáy chảy qua → một hình ảnh rất đỗi quen thuộc trong tuổi thơ Nguyễn Quang Thiều.
→ Hình ảnh sông Đáy được lặp lại nhiều lần trong bài thơ t/h nỗi nhớ nhung khắc khoải khôn nguôi.
+ Sông Đáy chảy vào đời tôi => ẩn dụ nói lên tình cảm gắn bó của tg với sông Đáy.
– Thơ Nguyễn Quang Thiều luôn mang tính nhạc. Với ngôi kể “tôi” cùng giọng thơ chậm rãi, nhẹ nhàng, tác giả đã bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình với Sông Đáy → để hoài niệm.
– Thi sĩ đã ví von, đối chiếu sông Đáy với mẹ: Sông Đáy như người mẹ hiền hòa cung cấp nước, phù sa nuôi sống cả 1 vùng thiên nhiên, con người. Cũng giống như người mẹ tần tảo làm lụng nuôi con → so sánh kì lạ
“Tôi dụi mặt vào lưng người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm”.
+ Đẫm mồ hôi → Là kết quả lao động mệt nhọc, vất vả, là minh chứng cho tình yêu to lớn của người mẹ dành cho con. → Sông Đáy là chứng nhân chứng kiến tuổi thơ khổ cực nhưng cũng đầy vui vẻ của thi sĩ.
“Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt”.
+ Không gian biến đổi từ quá khứ đến hiện tại: nhà thơ đã cách xa quê. Thiếu đi chỗ dựa tinh thần, ông so sánh mình như người bước hụt. Đó là cảm xúc tiếc nuối, day dứt khi chẳng thể níu ký ức trong tay, sông Đáy giờ một nơi, còn ta thì một nơi… Thời gian và không gian bắt đầu lu mờ, không rõ đâu là thực là ảo, đâu là quá khứ hiện tại.
– Câu 5: Ông kể về thế giới trong mơ của mình, đó là nơi con cá quẫy đuôi biến mất, nơi có thanh âm của tiếng khóc nấc.
→ Ông đã làm tuột câu mất con cá, giống như việc phải rời xa quê hương nơi mình hằng yêu quý. Chú cá ấy không ai khác ngoài thi sĩ, và tiếng khóc ấy chẳng thuộc về ai khác ngoài ông.
+ Cụm từ “âm thầm vỡ” lặp lại hai lần trong một câu, như tiếng nước mắt rơi trong tâm hồn ông → phảng phất trầm buồn của thi sĩ.
Tỏa mát xuống cơn đau tôi là tóc mẹ bến mòn đứng đợi.
+ Người mẹ đợi con trở về đến nỗi bến mòn
+“tỏa mát xuống cơn đau”: nhà thơ mang trong mình nỗi đau xa quê, nhưng ông vẫn có người mẹ đứng chờ. Ông thấy hạnh phúc khi vẫn luôn có một người hướng về mình.
+ Hình ảnh mái tóc mẹ → biểu tượng mẹ hiền luôn bên ông, dõi theo ông. Mẹ dịu dàng như sông Đáy, mát mẻ và trong lành.
→ Nếu ở khổ một, mát là hành động của gió sông, thì ở đây mát là hành động của người mẹ. Trong vô thức, thi sĩ đã hòa sông Đáy và mẹ mình thành một… Bởi lẽ, quê hương là mẹ, và mẹ cũng chính là quê hương.
– Niềm hạnh phúc hiện lên phần nào ẩn chứa sự chua chát, đắng cay.
“Một cây ngô cuối vụ khô gầy
Suốt đời buồn trong tiếng lá reo”
+ Biện pháp tu từ ẩn dụ: thi sĩ đã ví mẹ mình giống như cây ngô kia, chờ đợi khắc khoải đến héo úa, khô gầy → cách hiểu thứ 2: Sự cô độc sẽ khiến ta héo úa, chỉ có những mối liên kết bền chặt như tình mẫu tử mới khiến ta thoát khỏi tình cảnh ấy.
+ “Một cây ngô”: đối chiếu tương phản với hình ảnh mái tóc người mẹ -> làm nổi bật dụng ý: Cây ngô khô gầy khi đơn côi một mình trên đồi gió, còn ông thì không, vì ông đã có mẹ, đã có sông Đáy ở bên. Sông Đáy như một nguồn sức sống mãnh liệt, truyền năng lượng rực lửa cho những người con xa quê.
Hình ảnh sông Đáy
1.2.2. Câu 10 -14: Sông Đáy không chỉ là kí ức về những câu chuyện cổ tích xưa, mà còn là ký ức về tình yêu lứa đôi.
“Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên
ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất
ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ
được giàn giụa nước mưa sông.”
+ Sông dâng lên ngang trời → không gian phủ đầy hư ảo…
+ Tác giả so sánh đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất → Sự xa cách đã khiến nỗi nhớ dâng trào đến trời. Ông muốn bộc phát hết nỗi lòng mình, muốn khóc cho thỏa nỗi lòng như những chú bống kia.
– Sông Đáy còn gắn với tình yêu lứa đôi:
+ Nhà thơ định hình thế giới theo cách nghĩ của mình: Đôi môi màu dâu chín → ước vọng cánh buồm cổ tích nhưng cũng có cả sự cay đắng chia phôi.
=> Tình yêu với quê hương không chỉ có hình ảnh của mẹ mà còn có hình ảnh của người con gái đằm thắm dịu dàng → nhân vật trữ tình bồi hồi, hi vọng rồi lại thất vọng khi không nhìn thấy bóng hình “em” đứng bên sông đợi mình → Sông Đáy và “em” trở thành chuyện của quá khứ, giờ đây, nó lại sống dậy → sông Đáy đã chứng kiến một đoạn tình cảm ngắn ngủi của đôi trai gái, họ yêu nhau nhưng không đến được với nhau.
1.2.3. Từ câu 15-20: Ngày trở về gặp lại Sông Đáy
– “sông Đáy ơi” lặp hai lần → như một tiếng gọi thiết tha báo hiệu sự trở về muộn màng.
Mẹ tôi đã già như cát bên bờ
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi.
+ Nhà thơ quay trở về, nhưng mẹ không còn. Ông cố ôm cát vào lòng, khóc thương và muốn níu lại một chút “hơi thở” của người mẹ. Thi sĩ nhận ra sự thật phũ phàng: Mẹ đã mất, giống như cát trôi tuột qua tay ông chảy xuống dòng dòng, không thể ở lại.
→ “mẹ”: là hình ảnh luôn thường trực trong trái tim của người con, nhớ về quê hương là nhớ đến mẹ với biết bao kỉ niệm. → tình mẫu tử thiêng liêng sâu nặng
– Từ láy dòng dòng: xoáy sâu vào nỗi đau
→ hiểu theo chiều hướng tích cực: cái kết của khổ thơ: như một sự đoàn tụ của con người xa quê, ông quì xuống, ấp cát, đoàn tụ với quê hương sau bao ngày xa cách.
– “Tôi” đã khóc → giọt nước mắt của sự thương xót cũng là giọt nước mắt của hạnh phúc.
– Từ “chảy” ở đầu bài thơ được lặp lại → giờ đây sông Đáy không chảy vào ông nữa, mà chính ông chảy vào sông Đáy → Đó là sự hồi đáp của con người xa quê giờ đã quay trở về báo đáp quê hương, hồi đáp lại tình cảm của mẹ già → ấm áp của tình người.
=> Sông Đáy hiện lên qua 3 mốc thời gian: còn nhỏ, lúc lớn lên đi xa quê và cuối cùng là ngày trở về, được sắp xếp theo trình tự quá khứ – hiện tại → thể hiện chiều sâu của nỗi nhớ, có niềm vui, nỗi buồn khi xa quê → Qua đó, thấy được mối quan hệ mật thiết của sông Đáy với tác giả.
1.3. Tổng kết
1.3.1. Về nội dung
Bài thơ kể về tâm trạng của một đứa con trở về quê hương và gặp lại con sông Đáy, nơi tạo nên ký ức tuổi thơ và những hình ảnh đẹp của người mẹ. Những nỗi buồn da diết đó được thể hiện qua từng hình ảnh thơ khi tác giả nhớ về.
1.3.2. Về nghệ thuật
– Thể thơ tự do.
– Ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu và tinh tế.
– Ngòi bút uyên bác và tạo được cái riêng.